News

16

11-2021

Khủng hoảng năng lượng toàn cầu ảnh hưởng gì tới Việt Nam?

Thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng năng lượng, nguy cơ thiếu điện không chỉ ở Trung Quốc mà kéo sang Anh, Ấn Độ và nhiều quốc gia.

Cuộc khủng hoảng này tác động ra sao đến Việt Nam và chúng ta cần hành động gì?

Báo Giao thông trao đổi với ông Hoàng Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công thương xung quanh vấn đề này.

imgbgtchotwidthheight

Khủng hoảng năng lượng toàn cầu khiến chi phí sản xuất điện tăng

Tác động trực tiếp đến phục hồi kinh tế

Cuộc khủng hoảng năng lượng xuất phát từ nguyên nhân gì và nó tác động tới Việt Nam ra sao, thưa ông?

Cuộc khủng hoảng năng lượng trên thế giới do 5 yếu tố chính.

Thứ nhất, nhu cầu năng lượng thế giới phục hồi mạnh thời kỳ hậu Covid-19, đặc biệt là từ Trung Quốc.

Thứ hai, sự phụ thuộc ngày càng tăng của châu Âu vào nguồn năng lượng khí tự nhiên.

Thứ 3, tác động cung cầu năng lượng đẩy giá khí đốt và giá than tăng kỷ lục, khiến giá điện tăng mạnh.

Thứ 4, các quốc gia Bắc bán cầu đang bước vào mùa đông với những biểu hiện thời tiết cực đoan.

Cuối cùng, tiến trình chuyển dịch năng lượng ở khí tự nhiên là các bước đệm giữa chuyển đổi than sang nguồn năng lượng phát thải thấp cũng gây sức ép lên cung cầu năng lượng.

Trong khi đó, hiện nay, Việt Nam đang là nước nhập khẩu ròng năng lượng với mức nhập khẩu đáng kể than, dầu và tương lai gần sẽ là khí tự nhiên hóa lỏng (LNG).

Tác động lớn nhất từ cuộc khủng hoảng năng lượng lần này đối với Việt Nam đó là giá các loại năng lượng nhập khẩu sẽ tăng theo giá thế giới. Các loại năng lượng sản xuất trong nước cũng tăng với các mức độ khác nhau.

Năng lượng lại là yếu tố đầu vào quan trọng trong quá trình sản xuất điện và mọi hoạt động của nền kinh tế.

Do đó, sẽ khiến chi phí sản xuất điện nói riêng và chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng đáng kể. Yếu tố này sẽ có tác động đến quá trình hồi phục kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.

imgbgtonghoangtiendungwidthheight

Ông Hoàng Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo

Theo ông, chúng ta cần hành động gì để tránh “vết xe đổ” khủng hoảng năng lượng gây nên tình trạng thiếu điện hiện nay?

Việt Nam đang thực hiện quá trình chuyển dịch năng lượng và đã đạt được các thành tựu đáng kể trong việc thúc đẩy phát tiển năng lượng tái tạo, giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu, đa dạng hóa các nguồn năng lượng sơ cấp, nhờ vậy, tăng cường an ninh năng lượng trong dài hạn.

Việc phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo cần tiếp tục thực hiện với một lộ trình khả thi phù hợp với chi phí đầu tư công nghệ năng lượng tái tạo và giá bán điện.

Đồng thời, cần đẩy mạnh các giải pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng.

Ngoài ra, nhiệm vụ phát triển cơ sở hạ tầng nhập khẩu điện và các dạng năng lượng sơ cấp cũng cần được thúc đẩy.

Các yếu tố này cần thực hiện đồng bộ để đảm bảo quá trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam diễn ra hiệu quả và ngăn ngừa được các tác động tiêu cực.

Làm thế nào đảm bảo cung ứng điện?

Trong ngắn và dài hạn, ngành điện gặp những khó khăn gì? Liệu có xảy ra tình trạng thiếu điện không, thưa ông?

Năm 2022 sẽ không thiếu điện do dự báo tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế, nên tiêu thụ điện còn thấp, trong khi chúng ta tiếp tục được bổ sung thêm các nguồn điện mới.

Trong ngắn hạn, vận hành hệ thống điện sẽ còn đối mặt với các thách thức trong dự báo sản lượng điện năng lượng tái tạo, phụ tải điện biến động do đại dịch Covid-19, nhu cầu truyền tải điện giữa các miền tăng cao.

Trong dài hạn, khi hoàn thành đưa vào vận hành các dự án nguồn điện ở miền Bắc, đảm bảo tối đa cung cầu nguồn - tải nội miền, kết hợp với tăng cường năng lực truyền tải liên miền, việc cung ứng điện sẽ đảm bảo ổn định và tin cậy hơn.

Giá than và khí đốt từ châu Âu đến châu Á cũng tăng vọt khi các quốc gia thi nhau trả giá cao để bù đắp nguồn cung trong nước đang nhanh chóng cạn kiệt. Việt Nam có kế hoạch gì để đảm bảo nhiên liệu cho các nhà máy điện than và khí khi chiếm tới hơn 50% công suất nguồn điện?

Với Việt Nam, việc đảm bảo nguồn cung trong ngắn hạn chưa bị ảnh hưởng nhờ các hợp đồng nhập khẩu dài hạn.

Do đó, việc đảm bảo nhiên liệu cho các nhà máy điện than và khí trong nước trong thời gian này cần sự điều hành thống nhất để đảm bảo cung ứng nguồn nhiên liệu than, khí giữa các tập đoàn năng lượng trong nước.

Bên cạnh đó, việc thúc đẩy phát triển các hạ tầng cơ sở nhập khẩu năng lượng trong thời gian tới cũng cần được đảm bảo tiến độ để duy trì khả năng nhập khẩu năng lượng sơ cấp cho các nhà máy điện.

Đồng thời, phát huy công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo, tăng cường tích nước thủy điện sẽ góp phần giảm nhẹ sức ép lên nhiệm vụ đảm bảo nhiên liệu cho các nhà máy điện.

Nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Trong khi, có những thời điểm công suất tiêu thụ đỉnh rơi vào buổi tối (khoảng 22h). Chiến lược để cung cấp năng lượng cho quốc gia nhằm chủ động nguồn cung là gì? Phương án huy động các nguồn điện này ra sao để vừa đảm bảo được an toàn hệ thống, vừa đảm bảo cung ứng điện và lợi ích hài hòa cho doanh nghiệp, thưa ông?

Việc phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo phải được đặt trong một bức tranh hài hòa hệ thống điện nói riêng và hệ thống năng lượng nói chung.

Trong đó, cần cân nhắc đến các vấn đề về đảm bảo độ tin cậy cung cấp điện, đa dạng hóa các loại hình nguồn điện và đảm bảo giá điện ở mức chấp nhận được, có khả năng chi trả.

Điều này đảm bảo lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước trong sản xuất và kinh doanh.

Phương án phát triển và huy động các nguồn điện này cần được thực hiện với các giải pháp đồng bộ.

Thứ nhất, cần đảm bảo tiến độ các dự án, chủ động tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong đầu tư xây dựng và vận hành các công trình nguồn và lưới điện.

Thứ hai, khẩn trương triển khai xây dựng các đường dây, trạm biến áp giải tỏa công suất các dự án hiện hữu, nhất là các công trình năng lượng tái tạo.

Thứ ba, phát triển hợp lý các nguồn điện truyền thống với tỷ trọng hợp lý để đảm bảo cung ứng điện.

Thứ tư, phát triển các nguồn điện linh hoạt có thể đáp ứng nhanh chóng với các thay đổi về công suất phát điện năng lượng tái tạo và diễn biến phụ tải điện.

Thứ năm, triển khai mạnh mẽ các giải pháp quản lý, tiết giảm nhu cầu điện thông qua các chương trình quản lý nhu cầu (DSM), điều chỉnh phụ tải (DR).

Thứ sáu, đẩy nhanh tiến độ đàm phán, ký kết và triển khai thực hiện nhập khẩu điện.

Cảm ơn ông!

 

Back